Combo 2 Quyển: Power Vs Force + Chữa Lành Ánh Sáng Bản Thể:
1. Power Vs Force
2. Chữa Lành Ánh Sáng Bản Thể
------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------
1. Power vs Force
Tiến sĩ, bác sĩ tâm thần, nhà nghiên cứu nhận thức và giảng viên tâm linh nổi tiếng người Mỹ, ông David R.Hawkins (1927–2012), đã chứng minh được mối liên hệ mật thiết giữa bệnh tật của con người và những suy giảm năng lượng trong cơ thể, đến từ những tư tưởng tiêu cực. Kết quả nghiên cứu được ông trình bày trong cuốn sách bán chạy nhất của mình- “Power vs Force – Trường năng lượng và những yếu tố ẩn quyết định hành vi của con người”.
Theo đó, mỗi người có một tần số rung động hay mức năng lượng khác nhau tùy theo cảnh giới tinh thần của họ, nằm trong khoảng từ 1 đến 1000. Ví dụ như:
Vui vẻ, thanh tĩnh: 540
Lý tính, thấu hiểu: 400
Khoan dung độ lượng: 350
Hy vọng lạc quan: 310
Tự cao, khinh thường: 175
Căm ghét, thù hận: 150
Dục vọng, khao khát: 125
Sợ hãi, lo lắng: 100
Đau buồn, tiếc nuối: 75
Thờ ơ, tuyệt vọng: 50
Nhục nhã, hổ thẹn: 20
Ông cho biết những người không được thương yêu hay có tư tưởng tiêu cực, oán giận, chỉ trích, hận thù người khác hoặc sống ích kỷ đều có tần số rung động thấp. Trong quá trình trách móc, hận thù người khác sẽ làm tiêu hao rất nhiều năng lượng của họ và nó cũng tạo ra nhiều áp lực trên cơ thể vì thế tần số rung động sẽ giảm và những người này có nguy cơ bị mắc rất nhiều loại bệnh. Tần số rung động chính là từ trường mà mọi người thường hay nói.
Lấy ví dụ một người vô gia cư. Anh ta thường cảm thấy thất vọng, tự ti, mặc cảm, chỉ muốn buông xuôi thì tần số rung động chỉ ở mức 20. Tuy nhiên cách nhìn của người xung quanh đối với người vô gia cư này sẽ chỉ rõ tần số rung động của họ ở mức nào. Có người thì cho rằng người vô gia cư kia nghiện ngập và nếu cho tiền thì anh ta cũng đem mua rượu hay cung phụng cho cơn ghiền mà thôi. Họ nghĩ những người vô gia cư không nên tồn tại. Tư tưởng này cho thấy tần số rung động của họ cũng chỉ ở mức 20. Điều thú vị là 2 hoàn cảnh này dường như trái ngược nhau nhưng tần số rung động lại tương đương. Lại cũng có người khác muốn tránh xa người vô gia cư vì có cảm giác sợ sệt hay vô cảm thì tần số rung động cũng chỉ ở mức từ 50-100.
Từ bi, giác ngộ là cảnh giới cao
Cũng theo Tiến sĩ Hawkins, tần số rung động cao nhất mà ông đã quan sát được là 700, tần số trên 700 là những người thuộc hàng đã ở trong cảnh giới giác ngộ, tu hành đắc đạo, tràn đầy từ bi. Năng lượng của họ rất phong phú đầy đủ, khi họ xuất hiện có thể ảnh hưởng tới từ trường của vùng xung quanh.
Tiến sĩ Hawkins lấy ví dụ về nữ tu sĩ Thiên Chúa giáo Teresa. Khi bà xuất hiện trong buổi lễ trao giải Nobel Hòa Bình, bầu không khí trong toàn hội trường rất hòa ái tốt đẹp, tần số rung động cũng rất cao. Tại sao lại như vậy? Nguyên nhân vì tần số rung động của bà làm cho tất cả mọi người trong hội trường đều cảm nhận được nguồn năng lượng đó và chịu ảnh hưởng theo.
Tần số năng lượng là chìa khóa cho sức khỏe, hạnh phúc
Tiến sĩ, bác sĩ David Hawkins đã điều trị rất nhiều bệnh nhân đến từ khắp nơi trên thế giới. Mỗi ngày ông đều tiếp xúc hơn một nghìn bệnh nhân, nhiều khi quá tải, ông đều phải nhờ đến vị trợ lý của mình. Trong nhiều trường hợp, chỉ cần nhìn thấy bệnh nhân, ông đã biết người đó tại sao mắc bệnh, là vì ông không thể tìm thấy bất kể sự ‘yêu thương’ nào toát ra từ người đó, chỉ toàn là đau khổ và tuyệt vọng bao trùm khắp thân.
Trải qua một loạt các trường hợp thực chứng, Tiến sĩ Hawkins đúc kết ra rằng: những người bị mắc bệnh vì trong nội tâm họ có suy nghĩ tiêu cực.
Nếu tần số rung động của một người từ 200 trở lên thì người đó không mắc bệnh. Những người hay bệnh tật thường có tần số rung động thấp hơn 200. Vậy những ý niệm tiêu cực này là gì? Đó chính là những suy nghĩ thích chỉ trích người khác, khi họ chỉ trích người khác sẽ tiêu hao lượng lớn năng lượng của tự thân, do vậy tần số rung động của họ tụt xuống dưới mức 200. Những người này rất dễ mắc bệnh, mỗi người có thể mắc một loại bệnh khác nhau.
Tiến sĩ Hawkins cho biết, ông đã trải qua trên hàng chục nghìn trường hợp để kiểm chứng điều này và kết quả đều thống nhất như nhau.
Tần số rung động trong xã hội hiện đại
Tiến sĩ Hawkins cũng cung cấp những thực tế thú vị mà ít người biết về tần số rung động dưới đây:
85% dân số trên toàn thế giới có tần số rung động ở mức dưới 200.
Tần số rung động cao gắn với sự khỏe mạnh, tần số rung động thấp gây ra trạng thái ốm yếu/bệnh tật. Từng suy nghĩ, cảm xúc, lời nói, hành động, cũng như mỗi khoảnh khắc mà con người trải qua trong ngày đều đi về một trong hai hướng nêu trên.
Sách, thực phẩm, nước uống, quần áo, người, động vật, các tòa nhà, xe hơi, phim ảnh, thể thao, âm nhạc… đều có thể hiệu chỉnh tần số rung động từ thấp lên cao.Hầu hết phim ảnh sẽ làm suy yếu những người xem chúng bằng cách đưa các mức năng lượng xuống dưới 200.
Những cuốn sách/tri thức mang tần số rung động cao: Kinh Vệ Đà (910), sử thi Ramayana (810), giáo lý Thiền (795), sử thi Mahabarata (780), Tâm Kinh và Kinh Pháp Hoa (cùng 780), Kinh Koran và Kinh Kim Cương (cùng 700)…
Bởi vậy xuất phát từ góc độ là một bác sĩ tâm lý, Tiến sĩ Hawkins khuyên mọi người nên có chính niệm, suy nghĩ lạc quan… Điều này rất quan trọng và có thể mang đến cho bạn những lợi ích đáng kinh ngạc.
Nhiều chuyên gia có cùng quan điểm với David R.Hawkins, là chế độ ăn kiêng và tập thể dục không phải là yếu tố quan trọng nhất để có tuổi thọ. Tiến sĩ Elizabeth Blackburn, người đoạt giải Nobel năm 2009 về sinh lý học, tổng kết các yếu tố sống thọ: Nếu bạn muốn sống hơn 100 năm, chế độ ăn uống hợp lý chiếm 25%, các yếu tố khác 25%, trong khi cân bằng tâm lý chiếm 50%.
—
Thập niên 1990, cuộc đời của David R.Hawkins đã rẽ sang một bước ngoặt không ngờ. Đáp ứng niềm mong mỏi của bạn bè và người thân yêu, những người đã nhận ra tầm quan trọng của cuốn sách này với thế giới, ông đã tự xuất bản cuốn Power vs. Force: Anatomy of Consciousness (Sức mạnh và lực: Giải phẫu ý thức) vào năm 1995. Ông phân vân khi quyết định đứng tên tác giả cho cuốn sách; thực tế, nó là tác phẩm của không chỉ bản thể cá nhân ông.
Power vs. Force đã được dịch ra 25 thứ tiếng và đã bán được trên một triệu bản. Tiếp theo đó là hơn 10 cuốn sách với hàng trăm bài giảng, các cuộc phỏng vấn truyền thanh, và công tác tổ chức Nhóm nghiên cứu Hawkins trong hầu hết các thành phố lớn trên khắp thế giới, từ Seoul tới Cape Town hay Los Angeles.
Cuốn sách này đã đem đến một bước đột phá lớn lao cho tinh thần con người, phác ra những chiều kích ý thức mà trước đây chỉ những người có khả năng thần bí mới biết tới. Những con người có thiên khiếu trực nhận Thực tại (hay cách gọi gì chăng nữa) như thế, luôn luôn khẳng định vai trò trung tâm của cái “vô hình”.
—
MỤC LỤC
Lời giới thiệu cho lần xuất bản đầu tiên
Lời tựa cho lần xuất bản đầu tiên
Lời giới thiệu cho lần xuất bản mới
Đôi dòng tự sự
Lời tựa mới
Mở đầu
PHẦN MỘT: CÔNG CỤ
Chương 1: Những tiến bộ quan trọng trong nhận thức
Chương 2: Lịch sử và phương pháp luận
Chương 3: Kết quả thử nghiệm và diễn giải
Chương 4: Các cấp độ ý thức con người
Chương 5: Phân bố xã hội của các cấp độ ý thức
Chương 6: Những chân trời mới trong nghiên cứu
Chương 7: Phân tích điểm tới hạn trong đời thường
Chương 8: Cội nguồn sức mạnh
PHẦN HAI: CÔNG VIỆC
Chương 9: Mô thức sức mạnh trong thái độ của con người
Chương 10: Sức mạnh trong chính trị
Chương 11: Sức mạnh nơi thương trường
Chương 12: Sức mạnh và thể thao
Chương 13: Sức mạnh xã hội và tinh thần nhân loại
Chương 14: Sức mạnh trong nghệ thuật
Chương 15: Thiên tài và sức mạnh sáng tạo
Chương 16: Đứng vững trước thành công
Chương 17: Sức khỏe thể chất và sức mạnh
Chương 18: Cuộc sống khỏe mạnh và quá trình bệnh tật
PHẦN BA: Ý NGHĨA
Chương 19: Cơ sở dữ liệu của ý thức
Chương 20: Quá trình tiến hóa của ý thức
Chương 21: Nghiên cứu về ý thức thuần khiết
Chương 22: Cuộc đấu tranh tâm linh
Chương 23: Tìm kiếm chân lý
Chương 24: Giải pháp
Phụ lục A: Tính điểm cho chân lý của các chương sách
Phụ lục B: Bản đồ ý thức
Phụ lục C: Cách tính điểm hiệu chỉnh cho các cấp độ ý thức
Thuật ngữ
Giới thiệu về tác giả
Tóm tắt tiểu sử tác giả
Tài liệu tham khảo
—
Trích đoạn sách:
Sức khỏe thể chất và Sức mạnh
Chúng ta khỏe mạnh hay giàu có là nhờ trí tuệ. Nhưng trí tuệ là gì? Theo nghiên cứu của chúng tôi, đó là kết quả của việc sống nhất quán với các mô thức điểm hút năng lượng cao. Mặc dù trong cuộc sống bình thường, chúng ta thấy có nhiều vùng năng lượng đan xen, trộn lẫn nhau, nhưng mô thức có sức mạnh lớn nhất sẽ thống lĩnh. Hiện tại chúng tôi đã khám phá dữ kiện đủ để đưa ra một tuyên bố cơ bản về vận động học phi tuyến và nghiên cứu điểm hút: các điểm hút tạo ra bối cảnh. Về cơ bản, điều này có nghĩa là động cơ của một người, phát sinh từ các nguyên tắc mà người đó cam kết tuân thủ, sẽ quyết định khả năng nhận thức và do đó, trao ý nghĩa cho những hành động của người đó.
Hiệu ứng của sự nhất quán với nguyên tắc thể hiện rõ nhất ở những hệ quả sinh lý. Nhất quán với những mô thức điểm hút năng lượng cao tạo ra sức khỏe; nhất quán với mô thức điểm hút năng lượng thấp tạo ra bệnh tật. Kiểu biểu hiện này cụ thể và có thể dự đoán được. Việc có thể chứng minh được rằng mô thức năng lượng cao có tính củng cố và mô thức năng lượng thấp mang tính hủy hoại qua một thử nghiệm minh họa đáp ứng tiêu chuẩn khoa học, với tỉ lệ khả năng tái lặp 100%, là một sự thực mà người đọc đến giờ đã hoàn toàn quen thuộc.
Hệ thần kinh trung ương của con người rõ ràng có khả năng tinh nhạy phân biệt mô thức củng cố sự sống và mô thức hủy hoại sự sống. Các vùng điểm hút năng lượng cao, khiến cơ thể thử mạnh, giải phóng chất endorphin trong não và có hiệu ứng tăng cường sức khỏe cho tất cả các bộ phận. Trong khi đó, các kích thích có hại lại giải phóng adrenaline, trấn áp phản ứng miễn dịch và ngay lập tức làm suy yếu một số cơ quan cụ thể, tùy vào bản chất của kích thích.
Kiểu hiện tượng này chính là cơ sở cho các phương pháp điều trị như tác động cột sống, châm cứu, bấm huyệt và nhiều phương pháp khác. Tuy nhiên, tất cả những phương pháp này đều được tạo ra nhằm điều chỉnh kết quả của một sự mất cân bằng năng lượng nào đó, nhưng, nếu không điều chỉnh tận gốc thái độ gây ra sự mất cân bằng năng lượng này thì căn bệnh có thể quay trở lại. Hàng triệu người trong các nhóm tự thân đã chứng tỏ rằng sức khỏe và sự hồi phục khỏi hầu hết các vấn đề do hành vi con người, cùng bệnh tật đi kèm, là hệ quả của việc điều chỉnh thái độ sao cho tương ứng với những mô thức điểm hút năng lượng cao.
Nói chung, thái độ tích cực có lợi cho sức khỏe thể chất và tinh thần, trong khi bệnh tật lại gắn liền với những thái độ tiêu cực như tức giận, ghen tị, thù địch, tự ti, sợ hãi, lo âu… Trong lĩnh vực phân tâm học, thái độ tích cực được gọi là những cảm xúc có ích và thái độ tiêu cực gọi là những cảm xúc nguy cấp. Đắm chìm quá lâu trong những cảm xúc nguy cấp sẽ làm suy yếu thể chất hoặc tinh thần và sức mạnh cá nhân của con người. Làm thế nào người ta có thể vượt qua được thái độ tiêu cực để tránh bị bào mòn năng lượng và sức khỏe như thế? Quan sát lâm sàng cho thấy bệnh nhân phải đạt đến một điểm quyết định. Chân thành khát khao thay đổi cho phép người ta tìm kiếm những mô thức điểm hút năng lượng cao hơn trong những biểu hiện phong phú của chúng.
Người ta không vượt qua được thái độ bi quan khi cứ mãi hoài nghi, yếm thế; có một quan niệm phổ biến là người ta có thể nhận xét về chúng ta qua bạn bè của ta, nhận định đó không phải là không có cơ sở khoa học. Các mô thức điểm hút có xu hướng thống trị bất cứ vùng nào mà ở đó nó được tiếp nhận; do đó, điều thực sự cần làm là phải cho phép bản thân tiếp xúc với một trường năng lượng cao, rồi thái độ sẽ tự nhiên bắt đầu thay đổi. Đây là một hiện tượng nổi tiếng trong các nhóm tự thân − như được phản ánh trong câu nói: “Chỉ cần lê xác đến cuộc họp mặt.” Bạn chỉ cần cho phép mình tiếp xúc với những mô thức năng lượng cao, chúng sẽ bắt đầu “tự bén”, như người ta vẫn nói: “gần bùn thì đen, gần đèn thì rạng.”
Y học truyền thống thường tin rằng căng thẳng là nguồn cơn của nhiều chứng rối loạn và bệnh tật của con người. Chẩn đoán này có vấn đề ở chỗ nó không chỉ ra chính xác nguồn cơn gây căng thẳng. Có vẻ như nó quy trách nhiệm cho những hoàn cảnh bên ngoài, mà không nhận ra rằng mọi căng thẳng đều phát sinh từ bên trong, từ thái độ của con người. Không phải là những sự kiện cuộc sống, mà chính phản ứng của con người với chúng mới kích hoạt các triệu chứng căng thẳng. Một cuộc li dị, như đã nói, có thể đem đến nỗi đau đớn hoặc niềm thanh thản. Thử thách trong công việc có thể gây kích thích hoặc lo lắng, tùy vào việc người đó coi cấp trên của mình là một người thầy hay một tên ác ma.
Thái độ của chúng ta bắt nguồn từ quan điểm của chúng ta, quan điểm của chúng ta liên quan đến động cơ và do đó liên quan đến bối cảnh. Tùy vào cách lý giải ý nghĩa sự kiện, cùng một tình huống có thể là bi kịch hoặc có thể là điều may mắn. Xét trên phương diện sinh lý học mà nói, trong khi lựa chọn thái độ, người ta chọn giữa endorphin đồng hóa hoặc adrenaline dị hóa và hormone gây căng thẳng.
Hẳn là ngốc nghếch khi tuyên bố rằng những tác động duy nhất đối với sức khỏe là những tác động bắt nguồn từ bên trong. Những yếu tố của thế giới vật lý bên ngoài cũng có thể gia tăng hoặc làm suy yếu sức khỏe của chúng ta. Ở đây, lại một lần nữa, thử nghiệm vận động học chứng tỏ là công cụ có giá trị. Nó sẽ chỉ rõ cho bạn biết chất tổng hợp, nhựa, chất tạo màu, chất bảo quản, thuốc trừ sâu và chất tạo ngọt (đấy là tôi chỉ mới kể qua một vài thứ) sẽ khiến cơ thể suy yếu thế nào; trong khi những chất thuần tính, hữu cơ và được gia công tự nhiên có xu hướng ích lợi cho sức khỏe chúng ta. Chẳng hạn, nếu thử nghiệm với vitamin C, chúng ta sẽ nhận ra vitamin C hữu cơ tốt hơn a xít ascobic; vitamin C hữu cơ khiến bạn khỏe mạnh còn axit ascobic thì không. Trứng gà thả có nhiều dinh dưỡng hơn trứng gà nuôi nhốt và trứng gà nuôi bằng thức ăn công nghiệp. Phong trào ăn sạch uống lành dường như đã đi đúng hướng.
Thật đáng tiếc, cả Hiệp hội Y tế Mỹ lẫn Hội đồng Quốc gia về Dinh dưỡng Thực phẩm (Mỹ) từ xưa đến nay chưa có tiền sử được khai sáng trong lĩnh vực dinh dưỡng. Ngày nay, cộng đồng khoa học cuối cùng cũng nhận ra rằng dinh dưỡng liên quan đến hành vi và sức khỏe, 20 năm trước, khi Linus Pauling và tôi tuyên bố trong cuốn sách Orthomolecular Psychiatry (Tâm thần học theo dinh dưỡng vi lượng) rằng dinh dưỡng tác động đến môi trường hóa học trong não bộ và mạch máu, và do đó tác động đến nhiều hành vi, cảm xúc, rối loạn tinh thần và chất hóa học trong não, phát hiện này đã làm nổ ra một cuộc tranh cãi.
Gần đây, tác giả này đã công bố một loạt bài báo, bài cuối cùng được đăng vào năm 1991, về nghiên cứu kéo dài 20 năm cho thấy chế độ hấp thụ một số vitamin nhất định có thể tránh phát triển một hội chứng rối loạn thần kinh có tên là loạn động chậm, một hội chứng bất thường diễn ra thường xuyên ở phần lớn bệnh nhân từng uống thuốc chống loạn thần trong thời gian dài.2 Trong một nghiên cứu trên 61.000 bệnh nhân được điều trị bởi 100 bác sĩ khác nhau trong 20 năm, việc sử dụng vitamin B3, C, E, và B6 đã làm giảm tỷ lệ bệnh nhân mắc chứng rối loạn thần kinh khủng khiếp này từ 25% xuống còn 0,04%.3 (Trong số 61.000 bệnh nhân được bảo vệ bằng liệu pháp dùng vitamin liều cao, chỉ có 37, thay vì 20.000 bệnh nhân như dự đoán, mắc chứng rối loạn này.)
Ở Mỹ, bài báo này gần như là bị lờ đi vì vẫn chưa có một mô hình nào chứng minh cho độ tin cậy của nó. Giới y khoa không quan tâm chẳng qua vì họ cũng chẳng thiết tha gì với vấn đề dinh dưỡng, và các ban bệ y tế vốn không thiết tha gì với những cải cách mới mẻ. Bạn nên nhớ rằng một trong những nhược điểm trong bản chất con người là cố thủ bảo vệ một quan điểm lâu đời mặc cho vô vàn bằng chứng chống lại nó; chẳng còn cách đối xử nào khác với sự hờ hững, không công nhận này ngoài việc chấp nhận nó. Một khi đã thật hiểu bản chất con người, chúng ta sẽ thấy cảm thông với chính những điều mà có thể trước đây ta đã chỉ trích. Cảm thông là một trong những mô thức điểm hút năng lượng cao nhất. Như chúng ta sẽ thấy, khả năng thấu hiểu, tha thứ và chấp nhận có liên quan trực tiếp đến sức khỏe cá nhân của chúng ta.
------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------
2. Chữa Lành Ánh Sáng Bản Thể
Tôi tin rằng Barbara Brennan có thể dễ dàng được xem như một nhà chữa trị bằng bàn tay và thấu thị có ảnh hưởng nhất của thế kỷ 21. Có thể thấy rõ, công trình của bà mang tính tiên phong và đột phá. Các lý thuyết của Barbara Brennan về Trường Năng lượng Con người (HEF) đang được trích dẫn rộng rãi. Trên thực tế, các lý thuyết của bà về Trường Năng lượng Con người đã được ứng dụng và được xây dựng thành những thông tin giới thiệu chung về trường chữa trị năng lượng. Chúng đã đóng vai trò công cụ truyền tải thông tin và hướng dẫn đối với nhiều mô hình chữa trị bằng năng lượng mới được tạo ra gần đây. Các khía cạnh khác trong công trình của bà, như tầm quan trọng của chủ định rõ ràng, cũng đã được chứng minh là có ảnh hưởng sâu rộng. Tôi không mảy may nghi ngờ về ngôi trường của bà, về những buổi thực trình, các cuốn sách, các học viên, và tầm ảnh hưởng bao trùm của bà đã chạm đến hàng vạn nếu không muốn nói là hàng triệu cuộc đời trên thế giới.
Mọi người rõ ràng đã rất thích thú với những câu chuyện cuộc đời của Barbara. Họ muốn biết về thời thơ ấu, về khả năng chữa trị của bà, và về thế giới của những hiện tượng tâm linh vô hình mà bà có khả năng nhìn thấy và trải nghiệm. Các chủ đề này thường được nêu lên trong các câu hỏi từ phía các học viên và cử tọa tham dự các bài giảng của bà. Barbara đã dẫn dắt người nghe qua nhiều chủ đề, từ các vấn đề cá nhân cho đến các vấn đề toàn cầu, cùng một loạt các chủ đề khác, trong đó có: sức khỏe, chữa trị, tâm lý, tâm linh, các thiên thần, và ma quỷ. Bất kỳ chủ đề nào có tiềm năng đem lại lợi ích cho người khác đều được bà coi trọng.
Giờ đây, lần đầu tiên, độc giả sẽ được chính Barbara kể câu chuyện về cuộc đời bà. Bạn có thể cảm thấy một số chủ đề hơi cổ và thậm chí lạc hậu. Điều này hoàn toàn không nằm ngoài dự đoán nếu xét đến việc Barbara Brennan lớn lên trong thập niên 1940 và sống tại một trang trại ở bang Wisconsin. Bà thường chia sẻ rằng, trong quãng đời từ lúc thơ bé đến khi trưởng thành, cho đến khi rời nhà để vào đại học, bà không được tiếp xúc với nhiều thứ lắm - ngoại trừ những con bò. Barbara trải qua thời thơ ấu trong giai đoạn mà roi vọt vẫn là hình thức trừng phạt thường thấy ở hầu hết các bậc cha mẹ. Ngay cả trong giai đoạn trưởng thành của bà, mọi thứ đều rất khác so với thế giới ngày nay. Tuy nhiên, từ cả quan điểm toàn cầu lẫn quan điểm cá nhân, thông điệp mà Barbara truyền đạt vẫn vượt ra ngoài giới hạn của thời gian. Trên quan điểm toàn cầu, những thách thức mà nhân loại của ngày hôm nay đang phải đương đầu cũng giống hệt như những thách thức trong quá khứ. Trên quan điểm của cá nhân, với tư cách là những con người, tất cả chúng ta đều mong ước được sống cuộc sống có ý nghĩa và phát huy tối đa tiềm năng sáng tạo của mình.
Chữa lành Ánh sáng Bản thể tập trung vào các hiện tượng khiến cho Barbara Brennan trở nên khác biệt với những người khác trong lĩnh vực chữa trị. Xuyên suốt cuốn sách này, người đọc có thể dễ dàng nhận ra những suy nghĩ của Barbara trong quá trình bà đi qua những khác biệt đó và những gian truân mà bà đã vượt qua để hòa hợp với cả hai phương diện của bản thân - nhà khoa học và nhà chữa trị. Nhiều người trong chúng ta khao khát được nhìn thấy, cảm thấy và trải nghiệm thế giới vô hình; khao khát ấy có thể đến như một biểu hiện đơn giản của niềm mong mỏi muốn được liên hệ với một người thân yêu đã qua đời. Và đây chính là điểm làm hiển lộ một trong những tài năng lớn nhất của Barbara: khả năng tạo ra cầu nối giữa thế giới hữu hình và thế giới vô hình, và khả năng cho phép độc giả bước qua những thế giới đó cùng với bà.
Chữa lành Ánh sáng Bản thể xoay quanh quá trình sáng tạo để làm phát lộ cuộc đời mơ ước của bạn!
Trong Phần I, Barbara Brennan đã điểm lại cấu hình của Hệ thống Ý thức Năng lượng Con người (HECS). Kế đó, bà mô tả quá trình sáng tạo khi nó chảy qua Hệ thống Ý Thức Năng lượng Con người. Khi xung lực sáng tạo được giải phóng, chúng ta có khả năng hiện thực hóa ước mơ của mình. Thật không may, tất cả chúng ta đều có những tắc nghẽn làm ngăn chặn dòng chảy sáng tạo. Những chỗ tắc nghẽn này là những nơi mà năng lượng của chúng ta bị chặn lại do các thương tổn và chấn thương từng xảy ra trong thời thơ ấu. Chúng ngăn chặn không cho chúng ta tạo ra những gì mình muốn và xô chúng ta vào vòng luẩn quẩn của các khuôn mẫu lặp đi lặp lại. Barbara hướng dẫn chúng ta từng bước một giải phóng những chỗ tắc nghẽn đó. Khi các khối tắc nghẽn được giải phóng, năng lượng sáng tạo sẽ tự do tuôn chảy, và kết quả cuối cùng không chỉ là hiện thực hóa các khát vọng từ trái tim của chúng ta mà còn là ta sẽ có thêm nhiều tinh túy hơn, nhiều ánh sáng cốt lõi hơn.
Cuốn sách mang tính đột phá - Bàn tay Ánh sáng - từng giới thiệu với người đọc tác dụng vươn xa của Trường Năng lượng Con người như một công cụ để chúng ta trải nghiệm thực tại của mình. Tương tự như vậy, phần II của cuốn Chữa lành Ánh sáng Bản thể dẫn dắt độc giả vào một hành trình chưa từng có tiền lệ của vầng thứ tư, hay vầng tinh tú, của Trường Năng lượng Con người, soi sáng thế giới bí ẩn và thường bị hiểu nhầm này, đồng thời làm rõ những tác động sâu sắc của nó đối với chúng ta, với những mối quan hệ của chúng ta, và với nhân loại. Vầng thứ tư là cầu nối giữa thế giới vật lý ba chiều và các thế giới tâm linh cao hơn. Vầng thứ tư chứa đựng tất cả mọi thứ từ các vật thể cho đến các sinh thể và các hình thái tư duy. Đây là vầng của mối quan hệ, và như vậy chúng ta luôn luôn cùng sáng tạo với các cư dân của vầng thứ tư thông qua luật “giống nhau thì hấp dẫn nhau”. Vầng này cũng được biết tới như là thế giới tinh tú (astral world). Vì vầng thứ tư không tồn tại trong thực tại ba chiều, nên vầng này không thể thấy được bằng mắt thường. Thế nhưng từ thời xa xưa, nhiều nền văn hóa khác nhau đã mô tả và tiếp cận được với thế giới này.
Phần II bắt đầu với mô tả về cách thức hoạt động của Tri giác Cao cấp và cách nhận biết các vầng của Hệ thống Ý thức Năng lượng Con người. Trước khi có thể hiểu vầng thứ tư, chúng ta phải nhận thức được về nó! Kế đó, Barbara giải thích chi tiết về vầng thứ tư và nó vận hành khác với thế giới vật lý ra sao. Bà trình bày rất nhiều ví dụ từ thực tiễn chữa trị của bản thân mình, bao gồm cả các trải nghiệm của bà trong quá trình làm việc với một loạt các vật thể và sinh thể, đi thăm các cõi thấp của vầng thứ tư, và cuộc chạm trán giữa bà với tà thuật.
Barbara định nghĩa những khối tắc nghẽn trong vầng thứ tư - những yếu tố chặn đứng quá trình sáng tạo - là các “bao nang thời gian” có khả năng đã diễn biến qua nhiều kiếp sống. Bà mô tả quá trình giải phóng năng lượng sáng tạo bị tắc nghẽn này thông qua các phiên chữa trị bao nang thời gian. Bà giải thích Hệ thống Ý thức Năng lượng Con người bị ảnh hưởng ra sao thông qua quá trình chết và dịch chuyển qua cơ thể tinh tú.
Vì vầng thứ tư là vầng của mối quan hệ, nên chúng ta sẽ thấy có nhiều loại dây nối. Những sợi dây này phục vụ cho việc truyền dẫn thông tin vô hình, thường xảy ra giữa hai người. Ví dụ, chúng ta tạo ra các sợi dây gien di truyền với cha mẹ đẻ của mình và sau đó là những sợi dây quan hệ với mọi người mà chúng ta có kết nối cá nhân. Những sợi dây này có thể là lành mạnh hoặc cũng có thể mang theo những biến dạng sẽ gây can nhiễu đến quá trình sáng tạo của chúng ta. Các cội rễ truyền thừa, tức các sợi dây gien di truyền bị hư hại, kết nối chúng ta với tổ tiên của mình và mang theo các hệ thống niềm tin sai lầm được duy trì qua nhiều thế hệ. Barbara Brennan giải thích chi tiết về việc chữa trị những sợi dây gien di truyền và sợi dây quan hệ, cũng như việc chữa trị cội rễ truyền thừa.
Ngoài ra, cuốn sách còn bao gồm phần thơ dẫn kênh (Dẫn kênh là hoạt động qua đó một vị hướng đạo ở thế giới tâm linh trò chuyện, giảng dạy thông qua kênh trung gian là một người ở thế giới vật lý) từ Heyoan, vị hướng đạo của bà, qua đó làm sáng tỏ và tích hợp các khái niệm được giới thiệu xuyên suốt cuốn sách. Cuối cùng, mỗi chương đều kết thúc với các câu hỏi để khuyến khích độc giả đi sâu khám phá và làm việc thêm với các chủ đề được giới thiệu trong chương đó. Xuyên suốt chuyến hành trình này, chúng ta sẽ được thưởng thức từ việc khám phá bản thân đến cuộc dạo chơi qua vùng giao thoa giữa các thế giới vật chất và tâm linh dưới sự dẫn dắt của Barbara. Đến khi kết thúc, bạn sẽ có một hiểu biết lớn lao hơn về việc bạn chính là người sáng tạo nên cuộc đời mình!”
Chia sẻ của Lisa VanOstrand (Tốt nghiệp Trường chữa trị Barbara Brennan năm 1995 Trường khoa giải phẫu sinh lý Trường chữa trị Barbara Brennan, Nguyên Trưởng khoa Nâng cao Trường chữa trị Barbara Brennan).
MỤC LỤC:
Giới thiệu
Lời tựa
PHẦN I CHỮA TRỊ CÁC KHỐI TẮC NGHẼN VÀ GIẢI PHÓNG NĂNG LƯỢNG SÁNG TẠO
Chương 1. Hệ thống ý thức năng lượng của con người
Chương 2. Quá trình sáng tạo thông qua hệ thống ý thức năng lượng con người
Chương 3. Chữa trị quá trình sáng tạo bị tắc nghẽn
Chương 4. Gỡ rối cuộc đời bạn
Chương 5. Các công cụ giúp bạn tái tạo cuộc sống
PHẦN II CHỮA TRỊ TÍNH SÁNG TẠO THÔNG QUA VẦNG THỨ TƯ TRONG TRƯỜNG HÀO QUANG CỦA CHÚNG TA: CÁC MỐI QUAN HỆ
Chương 6. Tri giác cao cấp thực hành
Chương 7. Tiến vào các thực tại thuộc vầng thứ tư
Chương 8. Các thế giới thực tại, các vật thể, các sinh thể ở vầng thứ tư
Chương 9. Vật lý học của thực tại vầng thứ tư
Chương 10. Các hiện tượng thực tại khác ở vầng thứ tư: Những thứ bám dính, những yếu tố cấy đặt, và người ngoài hành tinh
Chương 11. Nhị nguyên cực độ trong các thế giới tinh tú tầng thấp
Chương 12. Chủ định tiêu cực và thế giới tinh tú
Chương 13. Tổng quan về chữa trị “tiền kiếp”
Chương 14. Chữa trị bao nang thời gian: Giải phóng những níu bám của quá khứ
Chương 15. Trường năng lượng con người trong quá trình chết
Chương 16. Cuộc sống sau cái chết
Chương 17. Chữa trị những sợi dây quan hệ của chúng ta
Chương 18. Chữa trị những cội rễ truyền thừa từ tổ tiên
Chương 19. Những khái niệm cốt lõi mang khuynh hướng nhất thể
Phụ lục thông tin
Phụ lục hình
Lời cảm tạ
Tài liệu tham khảo
Trường chữa trị Barbara Brennan
...